Cách đây 50 năm – ngày 27/1/1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, bước tiến quan trọng, có tính quyết định để Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng.
Đoàn đàm phán Hiệp định Paris về nước được chào đón nồng nhiệt tại sân bay Gia Lâm. Thủ tướng Phạm Văn Đồng cùng đông đảo người dân đón cố vấn Lê Đức Thọ, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh từ Paris trở về trước thềm Xuân Quý Sửu.
Ký hiệp định Paris, Mỹ chấp nhận một bước lùi nhưng vẫn tiếp tục cố giữ cho chính quyền Sài Gòn không sụp đổ. Trại Davis nằm trong sân bay Tân Sơn Nhất là nơi các nhà ngoại giao chuyển sang đấu tranh yêu cầu thi hành Hiệp định.
Tại đây, trong 823 ngày đêm, hai đoàn đại biểu quân sự Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam buộc Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định.
50 năm, kể từ ngày Hiệp định Paris được ký kết, bức ảnh “Hai người lính” chiến sĩ Quân giải phóng và người lính Sài Gòn chụp bên lề sự kiện trao trả tù binh tại Quảng Trị vừa được công nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Đây không chỉ là giải thưởng hay danh hiệu mà quan trọng hơn là tư tưởng nhân văn của người Việt trong tầm vóc của chiến thắng chính nghĩa.
Hiệp định được ký kết, sau đó là 823 ngày đêm đấu tranh buộc Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định đã hoàn thành sứ mệnh vào ngày 30/4/1975 – Ngày mà chân lý nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một đã trở thành hiện thực. Từ đây, chấm dứt hơn 100 năm bị nước ngoài chiếm đóng và chia cắt.
Hiệp định Paris gồm 9 chương, 23 điều, gồm 4 loại điều khoản chính. Các điều khoản chính trị gồm: Mỹ cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam; Mỹ không tiếp tục dính líu quân sự, không can thiệp công việc nội bộ miền Nam Việt Nam. Các điều khoản về quân sự gồm: 2 bên ngừng bắn, Mỹ rút hết quân trong 60 ngày; chấm dứt bắn phá miền Bắc; nhận tháo gỡ mìn do Mỹ đã rải ở miền Bắc. Các điều khoản về nội bộ miền Nam gồm: theo nguyên tắc hòa hợp dân tộc, bảo đảm tự do dân chủ, tổ chức tổng tuyển cử tự do, thành lập hội đồng quốc gia hòa giải hòa hợp dân tộc gồm 3 thành phần để tổ chức tổng tuyển cử… Cùng với hiệp định, 2 bên ký 4 nghị định thư: Nghị định thư về ngừng bắn và các ban liên hợp quân sự; Nghị định thư về Ủy ban giám sát và kiểm soát quốc tế; Nghị định thư về trao trả nhân viên các bên bị bắt; Nghị định thư về tháo gỡ, vô hiệu hóa mìn ở miền Bắc.
Hiệp định Paris về Việt Nam là kết quả của một quá trình đấu tranh gian khổ suốt 5 năm liền – một khoảng thời gian dài chưa từng thấy trong lịch sử đàm phán, kể từ phiên họp đầu tiên vào ngày 13-5-1968 đến khi kết thúc vào ngày 27-1-1973. Hội nghị diễn ra với 202 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn và hàng trăm cuộc mít tinh ủng hộ nhân dân Việt Nam.
Hiệp định Paris được ký kết là một thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh trên cả 3 mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao; thắng lợi của chủ trương “vừa đánh, vừa đàm”, của sự phối hợp nhịp nhàng giữa đấu tranh trên chiến trường với đấu tranh trên bàn đàm phán của nhân dân Việt Nam. Việc ký kết Hiệp định Paris cũng là thắng lợi của nhân dân Đông Dương cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù chung; thắng lợi của lực lượng xã hội chủ nghĩa, của phong trào độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình, tự do và tiến bộ trên thế giới. Với Hiệp định Paris, Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh, rút khỏi Việt Nam và Đông Dương, chấm dứt sự dính líu về quân sự. Chính quyền và quân đội Sài Gòn không còn chỗ dựa, bị suy yếu và lún sâu vào khủng hoảng.
Hiệp định Paris được ký kết đã mở ra một giai đoạn mới cho cách mạng Việt Nam. Với việc Mỹ rút quân nhưng lực lượng chính trị và vũ trang Việt Nam vẫn ở miền Nam đã tạo ra so sánh lực lượng mới, tạo thuận lợi cho việc đánh đổ chính quyền và quân đội Sài Gòn, hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hiệp định Paris và việc Mỹ rút khỏi Việt Nam đã góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng của nhân dân Lào, buộc Mỹ chấm dứt dính líu quân sự, đưa đến việc ký kết “Hiệp định về việc lập lại hòa bình, thực hiện hòa hợp dân tộc” ở Lào ngày 21-2-1973, tạo điều kiện cho việc giải phóng hoàn toàn nước Lào vào năm 1975. Đối với Campuchia, Mỹ chấm dứt ném bom, đánh phá, mở đường và tạo cơ hội thuận lợi cho nhân dân Campuchia giành thắng lợi hoàn toàn vào tháng 4-1975. Hiệp định Paris và thắng lợi của nhân dân Việt Nam tạo cục diện mới ở Đông Nam Á, quân đội Mỹ rút khỏi Đông Dương, khối SEATO giải thể, xu thế hòa bình, trung lập trong khu vực phát triển.
Bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, Paris ngày 27.1.1973
Đánh giá thắng lợi của Hiệp định Paris, trong lời kêu gọi ngày 28-1-1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ nước VNDCCH khẳng định: “Với việc Hiệp định Paris được ký kết, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã giành được thắng lợi rất vẻ vang. Đây là thắng lợi rất to lớn của cuộc kháng chiến oanh liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam”; “Hiệp định Paris được ký kết là cơ sở chính trị và pháp lý đảm bảo các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta, đảm bảo quyền tự quyết thiêng liêng của đồng bào ta ở miền Nam. Thắng lợi này là cơ sở để nhân dân ta tiếp tục tiến lên giành thắng lợi mới, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trong cả nước” .
Với Hiệp định Paris, Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh, rút khỏi Việt Nam và Đông Dương, mở ra một giai đoạn mới cho cách mạng Việt Nam, tạo ra thế so sánh lực lượng có lợi cho quân và dân miền Nam tiến tới đánh đổ chính quyền và quân đội Sài Gòn, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc vào mùa Xuân năm 1975.
535 total views, 2 views today
BÀI VIẾT CÙNG CHUYÊN MỤC